Trong khuôn viên một vườn cảnh, vị trí đặt hồ nước rất quan trọng vì ngoài việc phải hài hòa với bố cục chung cần phải có đủ lượng ánh sáng mặt trời cũng như có sự thông thoáng gió trên mặt hồ. Tuy nhiên, vườn cảnh nước không phải lúc nào cũng ở vị trí thuận lợi và có đủ ánh sáng vì nhiều lý do khác nhau như khu vườn quá nhỏ, bị tán cây hoặc tường rào che. Hơn nữa, nếu là hồ nước được bố trí ngay trong nhà hoặc sân trong ở giữa khoảng giếng trời – nơi không có nguồn ánh sáng tối ưu và tự nhiên thì việc chọn lựa những loài cây thích hợp cho những điều kiện hạn chế như vậy rất quan trọng.
Mỗi loài cây đều có sự thích nghi khác nhau về mức độ ánh sáng, vì vậy, cần phải có những cách bố trí phù hợp với từng điều kiện khác nhau để cây có thể phát triển một cách tốt nhất. Theo đó, có thể phân loại cây thủy sinh thành hai nhóm: nhóm cây ưa bóng và nhóm cây ưa sáng.
Nhóm cây ưa bóng
Bèo cái: Pistia stratoides L.- Họ: Araceae
Lá dày, mềm, tỏa theo hình hoa thị. Các lá có thể dài tới 14cm và không có cuống, màu xanh lục nhạt với các gân lá song song, các mép lá gợn sóng và được che phủ bằng các sợi lông tơ nhỏ và ngắn. Thân bò liên kết cây mẹ và cây con. Khi trưởng thành cây có đường kính khoảng 12cm nhưng sinh sản rất nhanh tạo ra các cụm dày đặc và có thể trở thành cỏ dại làm cản trở sự trao đổi khí trong mặt phân giới nước – không khí, làm giảm ôxy trong nước cũng như ngăn cản sự chiếu sáng cho các loài thực vật sống ngầm dưới nước. Vì vậy, cần kiểm soát sự sinh sản bằng cách vớt bỏ khỏi mặt nước. Béo cái không giới hạn độ sâu của nước nhưng phải đủ để rễ buông thõng trong nước. Có tác dụng hấp thụ các kim loại nặng và một số chất dinh dưỡng trong môi trường nước vì thế nó có tính năng chống ô nhiễm cho nước.
Bèo tai chuột : Salvinia molesta D.Mitch - Họ Salviniaceae
Thân nằm ngang trôi nổi trên bề mặt nước, lá được tạo ra từ các nốt. Ở mỗi nốt có một cặp lá trôi nổi đối diện nhau (còn gọi là nguyên tản) tròn – thuôn dài có màu xanh hoặc hơi vàng nâu, ở mép có phần tối hơn. Lá thứ ba bị tách ra và chìm xuống nước, được chia thành từng sợi nhỏ có tác dụng như rễ, giúp cho nguyên tản được treo trong nước không chạm đất.
Trong suốt giai đoạn đầu, cây nhỏ hơn và lá nằm phẳng trên mặt nước. Khi phát triển, lá uốn quăn lại ở mép do sự phản ứng lại việc tự cạnh tranh. Thậm chí, lá đạt được vị trí thẳng đứng khi cây trưởng thành, bị ép lại thành chuỗi hẹp, chật lại khít vào nhau và hình thành thảm trôi nổi.
Cây có 3 hướng phát triển tùy thuộc vào ánh sáng và mật độ. Nước có dinh dưỡng cao, có bóng, sâu và thưa thớt sẽ sinh ra cây nhỏ có kích thướng 7x10mm ở cá vị trí dọc theo thân và không chập vào nhau. Ở vị trí thoáng, mật độ trong nước thưa thớt, sẽ tạo ra cây lớn hơn với lá có kích thước lá 10x15mm và lá không chập vào nhau. Ở vị trí đông đúc, cây sẽ chắc mập với lá dựng thẳng đứng lên, kích thước 15x25mm, ngọn có khía hình chữ V và lá sẽ chập vào nhau.
Rau má lá sen: Hydrocotyle vulgaris (L.)- Họ Apiaceae
Cây thân cỏ, sống lâu năm, trơn nhẵn, mọc tập trung thành một khối rộng. Lá tròn, đường kính 8-35mm, khía tai bèo, có 6-9 gân chính tỏa ra từ chỗ gặp nhau của phiến lá và cuống lá. Cây có thân bò, mọc rễ ở các nốt. Khi trưởng thành cao khoảng 25cm. Độ sâu tối đa <5cm. Cây được nhân giống bằng những đoạn thân rễ.
Trong vườn cảnh nước, nên được sử dụng chung quanh rìa vườn nước. Nếu vườn cảnh nước có sử dụng đá thì có thể trồng cây vào trong hốc đá. Nếu hốc đá không ngập nước thì phải tưới thường xuyên để đảm bảo đất luôn bão hòa về nước. Đây là thực vật xâm lấn, khi cây mọc quá um tùm thì phải loại bỏ bằng cách lôi bỏ những đoạn thân rễ.
Thủy trúc: Cuperus alternifolius L - Họ Cyperaceae
Lá được sắp xếp ở đầu cành. Lá hẹp, phẳng, dài từ 15-25cm. Lá giảm dần thành bẹ ở gốc thay vào đó là các lá bắc xếp vòng xòe ra, cong xuốngtương tự như cánh hoa cúc. Hoa dạng mo, nở ở trung tâm của lá, màu xanh trắng, già hóa nâu. Loại đất tốt nhát cho cây là đất giàu than bùn (2 phần rêu than bùn + 1 phần nhiều đất mùn + 1 phần cát). Bón phân hàng tháng trong suốt mùa sinh trưởng, lượng phân cần được pha loãng ½ so với bình thường để cây phát triển một cách thăng bằng. Khi trưởng thành có chiều cao khoảng 1,2-1,8m. Độ sâu thích hợp từ 2,5-15cm.
Cây có thể được trồng như là một điểm nhấn làm tăng giá trị trong vườn cảnh nước và rất đẹp nếu làm phông sau cho một khu vườn. Nó có thể kết hợp với hòn non bộ trong vườn cảnh nước. Cây được tái sinh định kỳ bằng cách tách bụi và loại bỏ cành chết vì nó có thể mọc um tùm và trở thành cỏ dại trong những hồ nhỏ.
Nhóm cây ưa nắng
Ấu nước: Trapa natans L._Họ: Trapaceae
Cây có lá màu xanh, hơi đỏ nhạt, có lông nhung ở mặt lưng, dài 6-8cm, hình thoi, có răng, trải rộng trên mặt nước tỏ ra theo hình hoa thị, lá non chìm trong nước. Lá nổi với thân bởi cuống lá phình to bên dưới phiến lá, cuống lá dài 15cm. Hoa lưỡng tính, ở nách lá, nhỏ, đơn độc, có 4 cánh màu trắng hoặc màu tía nhạt, ngắn, có một cuống duy nhất, cuống hoa dày, trôi nổi ở giữa bộ lá. Thân cây chìm trong nước, dài và mềm. Chiều dài tối đa lên đến 5m, cây không có rễ chính mà thân chìm sinh ra hai loại rễ mọc tự nhiên. Những rễ gần đáy thân giúp cây đứng vững trong bùn lầy, không phân nhánh, những rễ cao hơn thì thưa, phân nhánh hình sợi lông trôi nổi tự do làm nhiệm vụ chống đỡ, được sinh ra từng cặp bên dưới đáy lá. Quả lớn, kích thước khoảng 2,5cm, quả hạch, hình dạng có khác nhau nhưng có đặc điểm chung là phình to ở giữa, có 2-4 cạnh sắc. Khi trưởng thành chiều ngang tối đa của cụm lá là khoảng 50cm. Cây nên đựoc trồng ở độ sâu tối đa không quá 1m.
Thủy quỳnh: Hydrocleys nymphoides - Họ Limnocharitaceae
Lá trôi nổi hoặc nổi hẳn lên mặt nước, hình xoan hơi tròn, chóp lá nhọn đột ngột, đáy hình tim, cân đối, màu xanh đậm, bóng, được sắp xếp hoàn toàn từ cụm thân. Lá có cuống nằm ngang, hệ gân hình chân vịt. Hoa: đường kính từ 3-4cm, ở nách lá, có cuống, hoa đơn độc, màu vàng, có đốm đậm hơn ở họng, mọc trên lá 5-10cm. Hoa nở vào mùa hè, thân cây bò lan đến 45cm. Cây phát triển ở độ sâu tối đa từ 30-40cm nhưng tốt nhất ở điều kiện nước nông khoảng 15cm. Nhân giống bằng đoạn rễ.
Súng lam : Nymphaea nouchali Burm.f. - Họ: Nymphaeaceae.
Lá: lớn, dạng khiên, mép lượn sóng, phẳng và có khía hình chữ V ở mép lá, cuống lá được đính ở vị trí từ khe nứt đến trung tâm, lá xen kẽ được sắp xếp theo hình xoắn ốc. Mép lá mảnh và hơi cuộn tròn vào bên trong giúp giữ cho phiến lá trôi nổi. Hệ gân lá có cấu trúc chống đỡ cho lá. Lá phía trên bề mặt nước nhẵn, được phủ lớp cutin có bề mặt như sáp để ngăn cản không cho lá bị chìm và ngăn cản những hạt bụi nhỏ đi vào khí khổng. Cây không có thân chính, chỉ có cuống lá dài mọc trực tiếp từ thân rễ. Hoa lưỡng tính, có cuống dài, đơn độc, mọc ra từ thân rễ, rộng tới 16cm, màu lam nhạt, có những dạng có hoa hồng hay hoa trắng, đài có chấm nâu, thường có 4 đài hoa màu xanh và rất nhiều cánh hoa. Hoa nở vào buổi sáng sớm đến giữa buổi và đóng lại hoàn toàn vào buổi chiều tối. Cơ chế đóng mở của hoa được điều khiển bởi đài hoa. Nếu loại bỏ chúng đi, hoa sẽ mất khả năng đóng mở. Mỗi hoa tồn tại trong khoảng 4 ngày. Khi trưởng thành một cây có thể trải dài trên mặt nước đến 1m. Phương pháp nhân giống dễ nhất là tách bụi. Cây trồng tự nhiên có thể được tách bụi và trồng lại vào đất mới mỗi năm 1 lần để cây phát triển tốt và đẹp. Cây được tách bụi trước khi bắt đầu vào mùa sinh trưởng mới. Cắt thân rễ và trồng ngay lập tức vào đất trộn mới và ẩm ướt. Mỗi cây mới phải có ít nhất 1 chồi non ở phía đầu thân rễ.
Lục bình: Eichhornia crassipes (Mort) Solms- Họ: Pontederiaceae
Cây có bộ lá xếp thành hình hoa thị, cuống lá dài đến 30cm hoặc hơn, xốp, phồng ra. Gần đáy phiến lá hơi tròn hoặc hình elip, rộng, xanh bóng, chiều ngang 10cm, đỉnh lá nhọn. Cuống lá dày, xốp giúp giữ cây nổi trên mặt nước. Cụm phát hoa lớn, dạng bông dài đến 30cm. Hoa có màu xanh tím nhạt, 6 cánh, mỗi cánh có 1 đốm vàng. Rễ chìm có màu xanh tối, dạng sợi, đầu chóp rễ phân nhánh tạo thành búi. Cây phát triển lấy trực tiếp chất dinh dưỡng từ trong nước, giúp cải thiện môi trường nước. Hệ thống rễ của cây có thể là môi truờng sống cho các loài động vật không xương sống và côn trùng, cung cấp môi trường hoang dã, bóng mát. Khi trưởng thành cây có chiều cao khoảng 40-60cm đồng thời có thể chịu bóng 1 phần. Độ sâu tối đa của cây không giới hạn, rễ ăn sâu vào trong bùn nếu môi trường sống cạn nước.
Cụm hoa lớn, dạng bông, màu đẹp rất thích hợp làm trang trí nhưng nếu trồng quá dày đặc, cây sẽ phá vỡ cuộc sống của các loài thực vật khác trong nước. Hồ ở nơi bóng râm, cây sẽ hấp thụ hết ánh sáng môi trường của những thực vật khách và ô xi trong nước. Cây rất khó phá hủy, sử dụng cây với tỷ lệ lớn sẽ trở thành cỏ dại, gây khó khăn cho hệ sinh thái. Vì vậy, khi trồng làm cảnh thì phải cân nhắc số lượng.
Kèo nèo: Limnocharis flava (L.) Buch.- Họ: Limnochảitaceae
Lá thẳng và hướng lên, không trôi nổi trên mặt nứoc, thường cao hơn cán hoa. Cuống lá dài, có vỏ bọc, gân cong có mặt cắt tam giác. Phiến lá có hình dạng thay đổi: dạng mác đến elip thuôn dài hoặc ovan rộng, dài từ 8-18cm. Đỉnh lá nhọn đột ngột, ở phía đáy mỏng hơn, màu xanh sáng. Đáy là hình nêm, mép lá hơi quăn, rìa lá gợn sóng. Có 4-6 đôi gân chính và 1 rìa gần như song song và hôi tụ theo hướng đỉnh, hàng loạt gân ngang song song và vuông góc với gân chính giữa tạo thành nhiều hình mắt lưới mảnh. Hoa có từ 1-4 cuống cụm hoa, kiểu phát hoa dạng tán, 2-12 hoa nằm trong tổng bao là lá bắc. Cuống hoa nhỏ, có phần mở rộng và có mặt cắt tam giác ở phía trên. Mỗi hoa có 3 cnáh màu vàng hình ovan rộng hoặc tròn. Có 3 đài hoa, màu xanh, bền, xếp gối lên nhau, hình ovan rộng, đỉnh tù, đài hoa ngắn hơn cánh hoa. Thân rễ dày và ngắn, cây sống ở đầm lầy, nước nông, chỗ ứ đọng nước, nếu trồng trong chậu thì đất phải có nhiều mùn. Khi trưởng thành cây cao khoảng 45-60cm và độ sâu tối đa khoảng 15cm.
Rau mác bao: Monochoria vaginalis (Burm.f.) Presl_ họ: Potederiaceae
Đầu lá sắc nhọn, phiến gần tròn, gốc hình tim, màu xanh sáng. Cuống lá mềm, rỗng, dài 10-20cm, phát triển từ chồi ở gốc. Phát hoa dạng chùm, đính trên cuống đối diện với bẹ của lá, hoa gồm 3-25 chùm màu tím hoặc màu cam, 2/3 nằm trên thân lá. Cuống hoa dài 4-25mm. Rễ xốp, màu xanh hơi đỏ tía. Cây bán thủy sinh, 1 năm, mọc ở những nơi có nước ứ đọng, nước nông. Chiều cao trưởng thành là 50cm. Độ sâu tối đa là 15cm.
Sự khác nhau trong độ sâu sẽ ảnh hưởng đến kiểu phát triển. So sánh cây trồng ở nơi nứoc nông và sâu có sự khác biệt: cuống lá và phiến lá sẽ dày hơn ở nơi nứoc sâu nhưng hoa sẽ mọc sớm hơn ở nơi nước nông. Cây sẽ thích nghi và phát triển một cách nhanh chóng ở nơi nước nông.
Từ cô lá tim: Echinodorus cordifolius (L.) Griseb- Họ : Alismataceae
Khi trưởng thành, cây có chiều cao từ 40-60cm. Lá có màu xanh sáng, bóng, hình ovan hơi tròn, chóp nhọn hình mác, đáy hình tim, dài 10-12cm, rộng 7-9 cm. Lá tròn và rộng hơn khi sống chìm dưới nước. Hoa : tụ tán trên 1 phát hoa dài 60-80cm, phát hoa có khoảng 3-9 vòng hoa, mỗi vòng hoa có từ 3-15 chiếc. Hoa màu trắng với 3 cánh hoa rời. Cây thích hợp đất với nhiều mùn và có thể chịu bóng một phần với độ sâu tối đa khoảng 15cm.
(Sưu tầm)